TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
TCVN 7538-3 : 2005
ISO 10381-3 : 2001
CHẤT LƯỢNG ĐẤT – LẤY MẪU – PHẦN 3: HƯỚNG DẪN AN TOÀN
Soil quality – Sampling – Part 3: Guidance on safety
Lời nói đầu
TCVN 7538-3 : 2005 hoàn toàn tương đương với ISO 10381-3 : 2001.
TCVN 7538-3 : 2005 do Ban kĩ thuật Tiêu chuẩn TCVN / TC 190 “Chất lượng đất” biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.
TCVN 7538 gồm các tiêu chuẩn sau, với tên chung Chất lượng đất – Lấy mẫu
TCVN 7538-2 : 2005 (ISO 10381-2: 2002) Phần 2: Hướng dẫn kỹ thuật lấy mẫu.
TCVN 7538-3 : 2005 (ISO 10381-3: 2001) Phần 3: Hướng dẫn an toàn
TCVN 5960 : 1995 (ISO 10381-6: 1993) Hướng dẫn về thu thập, vận chuyển và lưu giữ mẫu đất để đánh giá các quá trình hoạt động của vi sinh vật hiếu khí tại phòng thí nghiệm.
Bộ tiêu chuẩn ISO 10381 còn các tiêu chuẩn sau:
ISO 10381-1 : 2002 Soil quality – Sampling – Part 1: Guidance on the design of sampling programmes.
ISO 10381-4 : 2003 Soil quality – Sampling – Part 4: Guidance on the procedure for investigation of natural, near-natural and cultivated sites.
ISO 10381-5 : 2005 Soil quality – Sampling – Part 5: Guidance on procedure for the investigation of urban and industrial sites vvith regard to soil contamination.
ISO 10381-7 : 2005 Soil quality – Sampling – Part 7: Guidance on sampling of soil gas.
ISO 10381-8, Soil quality – Sampling – Part 8: Guidance on the sampling of stockplies
Lời giới thiệu
Tiêu chuẩn này là một tiêu chuẩn trong một bộ tiêu chuẩn khi áp dụng có thể kết hợp với nhau khi cần thiết. TCVN 7538-3 (ISO 10381-3) đề cập đến khía cạnh an toàn trong các mục đích điều tra nghiên cứu khác nhau về đất.
CHẤT LƯỢNG ĐẤT – LẤY MẪU – PHẦN 3: HƯỚNG DẪN AN TOÀN
Soil quality – Sampling – Part 3: Guidance on safety
- Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn vể mối nguy hại tồn tại trong điều tra nghiên cứu và lấy mẫu đất và các vật liệu khác, bao gồm mối nguy hại sẵn có trong quá trình lấy mẫu nhất là ở nơi bị ô nhiễm và các nguy hại vật lý khác, cần lưu ý để hạn chế và giảm thiểu rủi ro khi lấy mẫu hoặc ở nơi điều tra nghiên cứu.
Tiêu chuẩn này đưa ra hướng dẫn về mối nguy hại có thể gặp ở nơi điều tra nghiên cứu.
– Khái quát;
– Trên đất nông nghiệp;
– Trên đất bị nhiễm bẩn;
– Trong điều tra nghiên cứu địa chất.
và những chỉ dẫn các hoạt động làm tăng rủi ro. Sau đó mô tả quy trình đã được chấp nhận để kiểm soát các rủi ro này.
Tiêu chuẩn này đề cập đến vấn đề an toàn trong lấy mẫu và trong điều tra nghiên cứu mà không đưa ra những hướng dẫn cho những tình huống khác như xây dựng.
CHÚ THÍCH: Những nơi trước đây dùng để sản xuất đạn và dụng cụ chiến tranh tạo nên vấn đề đặc biệt đối với người điều tra nghiên cứu và những người liên quan khi lấy mẫu ở những địa điểm đó. Hướng dẫn ở tiêu chuẩn sẽ hỗ trợ cho những tình huống này, nhưng hướng dẫn bổ sung về những biện pháp phòng ngừa phải nhận được từ những chuyên gia chịu trách nhiệm về những hoạt động trước đây ở những địa điểm này.
- Thủ tục đầu tiên
Những hoạt động thường ngày đều ẩn chứa một yếu tố rủi ro và rủi ro này sẽ tăng lên trong môi trường lạ. Ngay khi lấy mẫu ở vùng nông nghiệp, người lấy mẫu cũng gặp phải những rủi ro bởi bản chất của đất và những mối nguy hại có thể có là chưa biết.
Khi nghiên cứu nơi bị nhiễm bẩn, rủi ro tăng lên do sự có mặt của hóa chất, các hợp chất và tác nhân có hại cho sức khỏe con người. Khi nghiên cứu những nơi trước đây sản xuất công nghiệp, nguy cơ thương tích vật lý có thể tăng lên do có thể có những hầm hố dưới lòng đất chưa được lấp đầy. Hầm có thể tồn tại khi đốt nhiên liệu dưới đất (ví dụ bãi rác thải khi đốt than).
Thương tích vật lý có thể xảy ra ở bất cứ tình huống lấy mẫu nào khi sử dụng máy móc; Các mối nguy hại này cũng xảy ra khi lấy mẫu đất nông nghiệp và những vùng bị nhiễm bẩn. Thương tích sẽ nặng hơn ở những nơi có máy móc lớn hơn và địa điểm điều tra nghiên cứu rộng hơn, và ngay những vết thương nhẹ cũng là con đường để chất độc và tác nhân gây bệnh đi vào cơ thể.
Cần chú ý an toàn khi đến khảo sát vị trí nghiên cứu trước khi bắt đầu điều tra nghiên cứu đầy đủ, nhất là những nguy hại tiềm ẩn còn chưa xác định được.
Đối tượng chính của hướng dẫn an toàn này là:
- a) Xác định các mối nguy hại có thể tồn tại trong điều tra nghiên cứu và chương trình lấy mẫu đất,
- b) Chỉ rõ quy trình quản lý an toàn công việc và xử lý tình huống thích hợp trong trường hợp xảy ra sự cố.
- c) Chỉ rõ biện pháp an toàn để bảo vệ con người và làm sạch các phương tiện để giảm thiểu nguy hại và
- d) Chỉ rõ cần chọn quy trình làm việc nào để giảm thiểu nguy hại từ chất nhiễm bẩn và nguy hại vật lý liên quan đến lấy mẫu và sử dụng máy
- Khái niệm về mối nguy hại, rủi ro và an toàn
Không thể xác định mọi mối nguy hại xuất hiện ở nơi làm việc và cũng không thể đưa ra hướng dẫn về rủi ro trong mọi tình huống. An toàn phụ thuộc vào thái độ và sự tiếp cận với mỗi tình huống mà mối nguy hại sẽ được phát hiện, đánh giá và những chú ý cần phải có.
Những người chịu trách nhiệm, lâp kế hoạch, thanh tra, nhân viên và tất cả những người tiến hành công việc đều chịu trách nhiệm về an toàn. Trách nhiệm này không chỉ đối với người làm việc mà còn liên quan đến cộng đồng nói chung, người có thể sống hoặc làm việc gần địa điểm điều tra nghiên cứu hoặc được phép hay không được phép đi vào địa điểm điều tra nghiên cứu khi đang tiến hành công việc.
Hướng dẫn trong tiêu chuẩn này phải được áp dụng cùng với các quy định về pháp luật của quốc gia và quốc tế về sức khỏe và an toàn khi làm việc.
Nói chung, để đạt được điều kiện làm việc an toàn đòi hỏi các tổ chức tuyển dụng chấp nhận “chính sách” và vận hành hoạt động sẽ yêu cầu và cho phép.
– Xác định độc hại và đánh giá rủi ro.
– Loại bỏ rủi ro khi có thể,
– Nếu không, cần kiểm soát rủi ro thông qua các quy trình vận hành thích hợp và
– Nếu không, cần bảo vệ con người khỏi những rủi ro khó tránh khỏi.
Nếu cần thì đào tạo, ghi chép các quy trình đã được thừa nhận và những tai nạn. Nếu có thể, cần thiết lập mạng lưới giám sát sức khỏe và các chương trình kiểm soát.
Bằng những cách này có thể giảm rủi ro đến mức tối thiểu chấp nhận được.
Để giảm rủi ro và xác định quy trình quản lý cần phải:
– Xác định mối nguy hại,
– Xác định trong hoàn cảnh nào độc hại có thể gây rủi ro,
– Định lượng rủi ro hiện có.
Đối với những vùng bị nhiễm bẩn, phải nghiên cứu tài liệu khi xác định mối nguy hại từ ô nhiễm và những điều kiện vật lý.
- Tiếp xúc của con người với mối nguy hại
4.1. Khái quát
Điều này đề cập đến mối nguy hại tồn tại ở địa điểm có thể ảnh hưởng tới người điều tra nghiên cứu.
Có nhiều loại nguy hại đã được xác định trong những hoàn cảnh khác nhau. Những mối nguy hại này gây hàng loạt hiệu ứng, từ dị ứng da, các tổn thương vật lý đơn giản cho đến những ảnh hưởng, gây tử vong. Khi thiết lập quy trình an toàn thích hợp không những phải xem xét mối nguy hại mà còn phải biết mối nguy hại xảy ra với người điều tra nghiên cứu và lấy mẫu như thế nào. Trong phần lớn trường hợp, mối nguy hại là do hiệu ứng độc cấp tính nhưng với người điều tra nghiên cứu và lấy mẫu thường xuyên cũng có thể là độc mãn tính.
4.2. Nhiễm độc do tiếp xúc
Tiếp xúc trực tiếp với hóa chất như các dung môi clo hóa, benzen, hắc ín, dầu và mỡ, phenol, crom (VI), thuốc bảo vệ thực vật (ví dụ thuốc trừ sâu, trừ cỏ, trừ nấm) và nhiều chất khác có thể gây hiệu ứng với con người. Những hiệu ứng này có thể là nấm ngứa da và nếu sự hấp phụ xảy ra có thể có nhiều hiệu ứng nghiêm trọng khác.
Một số hóa chất tiềm ẩn gây ung thư qua tiếp xúc với da.
Tẩy nhờn da làm giảm khả năng hấp thụ các hợp chất ngăn ngừa sự lây nhiễm.
Một vài hoá chất có thể bị nấp thụ qua da và gây hại nếu tiếp xúc lâu dài hoặc với nồng độ đủ lớn. Nếu da bị rách hoặc trầy xước, hấp phụ dễ xảy ra và dễ bị nhiễm khuẩn, ví dụ như uốn ván, mưng mủ. Bệnh Weih có thể truyền qua chỗ da bị rách, nhưng loại vi khuẩn Leptospira có thể thấm sâu qua da nếu da bị ngâm lâu trong nước.
Mắt có thể bị đau khi tiếp xúc với ánh sáng quá mạnh trong khi làm việc với chất lỏng hoặc vật liệu ướt, và khi tiếp xúc với tay bẩn, găng và quần áo. Mắt cũng bị đau khi bị kích thích và có thể loại trừ bằng cách tắm, nhưng những vật làm trầy xước và dung môi có thể gây hỏng vĩnh viễn.
4.3. Nhiễm độc qua ăn uống
Chất ô nhiễm từ nơi lấy mẫu có thể vào cơ thể qua đường ăn, hút thuốc, uống nước hoặc lau mặt không cẩn thận bằng tay hoặc găng bị nhiễm bụi bẩn chất ô nhiễm.
Vì các niêm mạc này nhạy cảm hơn da nên chất ô nhiễm ở mức thấp cũng gây nên các tác hại đáng kể. Nếu vô ý nuốt phải chất ô nhiễm thì dạ dày sẽ khó chịu và các triệu chứng khác sẽ xuất hiện. Cũng có thể quá trình tiêu hóa sẽ đẩy nhanh sự hấp thụ chất độc và gây ra các tác hại lâu dài.
4.4. Nhiễm độc qua đường hô hấp
Khí và hơi độc có thể gây nhiều hiệu ứng, từ đau đầu cho đến tử vong, mức độ độc hại phụ thuộc vào độc tính của hóa chất và thời gian tiếp xúc. Cacbon dioxyt và hydro sunfua đều gây ra các hiệu ứng trên. Các dung môi và hợp chất tương tự có thể gây hiệu ứng buồn ngủ.
Hiệu ứng tạo nên do một vài chất tăng lên khi hút thuốc lá, vì sức nóng của thuốc lá có thể là nguyên nhân tạo ra những chất độc hơn khói thuốc, ví dụ hơi của dung môi clo hóa chuyển thành cacbonyl clorua (COCI2 phosgen) nhờ nhiệt của điều thuốc lá.
Sự tiếp xúc có thể xảy ra khi hít phải bụi, sợi và khói. Bụi có thể gây nhiều tác hại khác nhau. Ví dụ silic và amiăng là trơ về hóa học nhưng rất nguy hiểm nếu hít phải. Những bụi khác chứa hydrocacbon đa vòng hoặc dioxin có thể gây ung thư, trong khi những hóa chất khác có thể gây độc.
Nhiễm độc do hít thở tăng lên trong quá trình lấy mẫu (ví dụ hít phải khói xả hoặc bụi khi khoan bê tông) hơn là do chất ô nhiễm ở nơi lấy mẫu.
Hiệu ứng do hít thở là khác nhau, đối với một vài chất, hiệu ứng xuất hiện ngay, một vài chất khác gây hiệu ứng lâu dài, đòi hỏi thời gian hồi phục lâu hơn.
4.5. Tiếp xúc với mối nguy hại vật lý
Mối nguy hại vật lý có thể từ tổn thương đơn giản ở chân tay, khớp, như bong gân, gãy xương đến những tổn thương nghiêm trọng hơn như va phải máy đào hoặc ngã vào các thiết bị lấy mẫu như máy khoan. Nền đất không vững chắc quanh chỗ đào, nền đất lầy lội và nước có thể gây sát thương, nhiễm chất nhiễm bẩn và có thể chết đuối.
Trong khi điều tra nghiên cứu không được xuống những phẫu diện như các giếng thử, nhưng nếu bắt buộc xuống thì phải chú ý khả năng sập giếng. Mối nguy hại này sẽ trở nên nghiêm trọng nếu giếng đào sâu hơn 1,2 m.
Phẫu diện cũng nguy hiểm cho người ở ngay mặt đất nếu nền độ không ổn định, có thể sập đổ xuống đáy phẫu diện, nguy hiểm tăng lên cùng với độ sâu và độ không ổn định của đất.
4.6. Tiếp xúc với lửa và chất nổ
Lửa ngầm rất nguy hiểm do trong hầm ngầm có thể tạo ra khí độc như cacbon dioxyt và cacbon monoxyt.
Những chất dễ cháy và khí nổ ở những nơi như bãi san lấp, hầm nhiên liệu dưới lòng đất có thể gây ra mối nguy hại nếu vô ý để gây lửa.
Dùng chất nổ chỉ trong trường hợp cần thiết khi nền đất quá cứng (ví dụ vùng băng giá).
Bom, mìn chưa nổ còn sót lại từ thời chiến tranh cũng có thể gây mối nguy hại. Mối nguy hại do nổ bom đạn thường xảy ra ở nơi đã được dùng để sản xuất và xử lý chất nổ và đạn dược.
- Mối nguy hại tiềm ẩn tại nơi lấy mẫu và địa điểm điều tra nghiên cứu
5.1. Khái quát
Điều này trình bày mối nguy hại do các chất ô nhiễm khác nhau và các khía cạnh vật lý trong quá trình điều tra nghiên cứu và lấy mẫu.
Tiêu chuẩn này không nói đến mối nguy hại xuất hiện hàng ngày như dùng dụng cụ sắc để đào (như dĩa) hoặc mối nguy hại khi đi đến nơi làm việc. Có thể cho rằng những mối nguy hại như vậy có thể được người điều tra nghiên cứu và lấy mẫu giải quyết thỏa đáng.
5.2. Mối nguy hại chung
5.2.1. Mối nguy hại do hóa chất rắn và lỏng
Những hóa chất này có thể nhìn thấy rõ (như trong trường hợp hóa chất còn sót lại ở khu công nghiệp trước đây) hoặc không nhìn thấy (như hóa chất bảo vệ thực vật ngoài cánh đồng). Khi đề ra phương pháp an toàn cho điều tra nghiên cứu và lấy mẫu, cả hai trường hợp này đều phải được xem xét và chú ý đến.
Mối nguy hại có thể do tiếp xúc ở những chỗ hở của quần áo bảo hộ hoặc truyền qua tay nếu tạo thành bụi, có thể bị hít phải. Khi điều kiện ẩm ướt hoặc có chất lỏng, cần tránh bị bắn vào người.
5.2.2. Mối nguy hại do khí
Vi đa số các điểm điều tra nghiên cứu là ở ngoài trời nên nồng độ các khí độc đều được pha loãng vào không khí. Tuy vậy có những trường hợp người khoan bị kiệt sức vì khói xả và phải đưa đến bệnh viện, do vậy cần chú ý khi đánh giá mối nguy hại tiềm ẩn.
Trong những trường hợp đặc biệt (khi có phân hủy yếm khí và sinh ra khí metan như ở nơi san lấp), sự pha loãng khí bởi không khí có thể làm nồng độ metan đạt ngưỡng nổ.
Trong những trường hợp khác, mặc dầu sự pha loãng trong không khí không đạt đến nồng độ độc hại nhưng ở nồng độ thấp của các khí cũng gây ra những triệu chứng như nhức đầu, chảy nước mắt.
Sử dụng máy ở chỗ không thoáng có thể dẫn đến sự tạo thành bầu khí độc và dưới những điều kiện cùng cực có thể gây nguy hiểm.
Khói xả của những động cơ đốt trong có thể gây độc hại.
Khi điều tra nghiên cứu yêu cầu phải xuống hố sâu hoặc nơi không thoáng, khả năng tạo khí nổ hoặc khí độc, tạo bầu không khí thiếu oxy là có thể xảy ra. Không khí thiếu oxy, thậm chí là chỉ thiếu một lượng nhỏ (1%) cũng có thể gây tử vong.
5.2.3. Mối nguy hại do nguyên nhân sinh học (vi khuẩn và virus)
Mặc dầu tai nạn do nguyên nhân sinh học rất ít xảy ra, nhưng bệnh tật do vi khuẩn và virus thì rất nhiều. Những bệnh này đôi khi không nguy hiểm và thường không dính dáng đến công việc. Vì vi khuẩn phân bố rộng nên cần xem chúng như độc hại và cần chú ý để ngừa những tác hại do chúng gây nên.
Một vài mối nguy hại do sinh học không phải là đặc tính vùng (ví dụ bệnh uốn ván, thương hàn và bệnh Weil) và yêu cầu phải chú ý.
Bệnh Weil (bệnh vàng da do vi khuẩn Leptospira) sinh ra do tiếp xúc với nước bị nhiễm nước tiểu của chuột (xem 4.2). Do vậy, mỗi nguồn nước ở ngoài nhà đều có thể là nguồn gây độc nếu vùng này có nhiều chuột sinh sống, ví dụ như bãi chôn lấp. Nhiễm Leptospira gây tử vong nếu không được phát hiện sớm.
Nơi có mầm mống bệnh than cũng gây nguy hiểm (xem 5.3.4).
5.2.4. Mối nguy hại do phóng xạ
Mối nguy hại do phóng xạ thường không lớn ở những địa điểm điều tra nghiên cứu và lấy mẫu thông thường. Mối nguy hại do phóng xạ từ những hoạt động trước đó phải được xác định khi nghiên cứu tài liệu. Ở mọi địa điểm điều tra nghiên cứu, sự tiếp xúc nhất thời phải đảm bảo ở liều bức xạ không gây nguy hại nhưng vẫn phải phòng ngừa và giám sát chặt chẽ
5.2.5. Mối nguy hại do địa hình
Mối nguy hại vật lý là một phần của đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, người điều tra nghiên cứu lấy mẫu ở những nơi không quen thuộc địa hình thì các mối nguy hại này có thể gây những nguy hiểm thực sự. Trong một số trường hợp chúng có thể đe dọa đời sống, và chỉ gây thương tích như bong gân hoặc gãy xương.
Nền đất có thể gập ghềnh như có ổ gà bị che khuất bởi cây cỏ, ở những nơi bị bỏ hoang, các thanh rào hoặc mảnh vỡ có thể gây vấp ngã. Mảnh thủy tinh có thể gây nguy hiểm nếu dẫm phải chúng.
Các phẫu diện có thể là mối nguy hại do thành không vững có thể bị sập hoặc ở nơi đất không bền, bị cây che lấp không nhìn thấy rõ hoặc nắp đậy không chịu được trọng lượng người, thí dụ hố tạo nên khi đốt nhiên liệu dưới đất.
Dây điện ở trên cao cũng gây nguy hại, nhất là khi khảo sát dùng sào và dùng máy móc có chiều cao (máy đào có gầu gập: máy khoan) có thể gây chập điện hoặc bị điện giật chết.
Thiết bị ngầm dưới đất cũng gây nguy hại nhất là thiết bị điện có thể giật chết người.
5.2.6. Mối nguy hại do máy móc
Bất cứ máy móc nào cũng có thể gây nguy hại nếu không vận hành cẩn thận và tuân theo hướng dẫn của nhà sản xuất và các quy định về an toàn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các khía cạnh này không được quan tâm và đánh giá đầy đủ.
Khi thiết lập vị trí lấy mẫu ở chỗ cần phá vỡ bê tông, sự phá bê tông có thể tạo ra những mảnh vụn bay tung toe.
Tiếng ồn của máy móc cũng có thể là mối nguy hại, đặc biệt khi dùng máy khoan phá bê tông, dùng máy nặng hoặc chất nổ.
Khi khoan bằng tay, đặc biệt là ở độ sâu lớn, cơ thể có thể bị căng thẳng. Khi dùng khoan máy, giữ máy khoan hoặc để ở tốc độ khoan quá lớn có thể gây tai nạn do vật cản hoặc do nguyên nhân khác làm thay đổi đột ngột khi di chuyển.
Máy móc phải luôn vận hành theo đúng cách. Đối với những máy lớn, điều quan trọng là người điều tra nghiên cứu không được đứng ở vị trí máy có thể va chạm khi đang vận hành hoặc đứng quá gần hoặc đang tiến hành công việc mà người lái không nhìn thấy. Những người không được đào tạo không bao giờ được vận hành những máy móc như vậy.
Đối với tất cả các máy, đặc biệt là những máy móc lớn, cần chú ý khi di chuyển vị trí để đảm bảo nền đất không bị sụt dưới sức nặng của máy. Điều này đặc biệt quan trọng ở những nơi có cây cối dày đặc và những nơi có khoảng trống ngầm (chỗ đất lún, hầm nhiên liệu cũ).
Máy móc bị sa lầy có thể gây nguy hại do chuyển động đột ngột khi máy được giải phóng.
Các máy móc dùng động cơ đốt trong có thể là mối nguy hại do phát thải khí xả.
Máy móc chạy điện có thể gây nguy hại do dò điện xuống đất hoặc chập mạch điện.
Dùng máy đào tại chỗ điều tra nghiên cứu có thể gây nguy hại cho công việc và nguy hiểm cho người vận hành và người điều tra nghiên cứu.
TCVN7538-3_2005-chat-luong-dat-phan-3.pdf